MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC
SINH LỚP 3 GIẢI TỐT BÀI TOÁN LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ
Trong các môn học ở tiểu học cùng với môn Tiếng Việt,
môn Toán có vị trí rất quan trọng vì: Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán có
rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất
cần thiết để học các môn học khác và học tiếp Toán ở Trung học. Các kiến thức,
kĩ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện
tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và
trong đời sống.
Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát
triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh. ở lớp 3, các em được học các
kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai
đoạn sau, cho nên các em phải nắm được chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải
toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói chung. Đặc biệt, ở lớp 3 sang học
kì II, các em bắt đầu được làm quen với các dạng toán hợp cơ bản,
trong đó có dạng toán liên quan rút về đơn vị. Dạng toán này có rất nhiều ứng
dụng trong thực tế, nó đòi hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng
ứng dụng thực tế trong hàng ngày,sau đây tôi sẽ trình bày một số phương pháp: “Giúp
các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn
vị”.
1/Phương pháp chung để giải các bài
toán:
Mỗi
bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp
giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng ta cần
hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau:
* Bước 1: Đọc kĩ đề toán.
* Bước 2: Tóm tắt đề toán.
* Bước 3: Phân tích bài toán.
* Bước 4: Viết bài giải.
* Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
Cụ thể yêu cầu đối với
học sinh như sau:
a/ Đọc kĩ đề toán: Học sinh đọc ít nhất 3 lần mục đích để giúp các
em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết
trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều
kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số.
Cần
tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố
cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần
thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu
hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một
cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay.
b/ Tóm tắt đề toán: Sau
khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn
lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ hơn. Mỗi em
cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tắt ấy mà nhắc lại
được đề toán.
Thực
tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm
tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt
các cách sau tới học sinh:
* Cách
1: Tóm tắt bằng chữ.
* Cách
2: Tóm tắt bằng chữ và dấu.
* Cách
3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
* Cách
4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng.
* Cách
5: Tóm tắt bằng lưu đồ.
* Cách
6: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven.
* Cách
7: Tóm tắt băng kẻ ô.
Tuy
nhiên tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào cho hiểu nhất, rõ
nhất, điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài.
c/ Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân
tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử
dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài
toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường:
- Bài
toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn
tìm cái đó ta cần biết gì?
-
Cái này biết chưa?
-
Còn cái này thì sao?
-
Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng
dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm
bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán.
d/ Viết bài giải: Dựa
vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài
giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày
đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ,
không viết tắt, chữ và số phải đẹp.
e/ Kiểm tra
lời giải và đánh giá cách giải:
Qua
quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh
thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời.
Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng
túng. Vì vậy việc kiểm tra , đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán
va phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng
ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
-
Đọc lại lời giải.
-
Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt
trong lời giải đúng chưa.
-
Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
-
Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
Đối
với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập
phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện
phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học
sinh.
2/ Phương pháp giải bài toán liên
quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia ,nhân ( kiểu bài 1):
Để
học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ngay
ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau:
a/ Kiểm tra
bài cũ: Để nhắc lại kiến thức cũ
và chuẩn bị cho kiến thức mới cần truyền đạt, tôi ra đề như sau:
“Mỗi can chứa được 5 lít mật ong. Hỏi 7 can như vậy
chứa được bao nhiêu lít mật ong?”
Với
bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau:
Bài
giải.
Bảy
can như vậy chứa được số lít mật ong là:
5
x 7 = 35 ( l)
Đáp
số: 35 l mật ong.
Sau
đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, đồng
thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán.
b/ Bài mới:
* Giới
thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới
thiệu bài ngày hôm nay các em được học.
* Hướng
dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 35 l mật ong chia đểu vào 7 can. Hỏi mỗi can
có mấy lít mật ong?
- Giáo viên yêu cầu học sinh
đọc đầu bài( 3 em).
- Hướng dẫn học sinh tóm tắt
bài toán ( sử dụng phương pháp hỏi đáp):
+
Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can).
+
Bài toán hỏi gì? ( 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong).
+
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng:
7
can: 35 l
1
can:? l .
- Hướng dẫn học sinh phân tích
bài toán để tìm phương pháp giải bài toán.
- Giáo viên yêu cầu học sinh
làm vào bảng con.
- Giáo viên đưa bài giải đối
chiếu.
Bài
giải
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Đáp
số: 5 l mật ong.
- Giáo viên
củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì?
( phép tính chia).
- Giáo
viên giới thiệu. Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu
chúng ta tìm số lít mật ong trong 1 can, để tìm được số lít mật ong trong 1
can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm
giá trị của một phần trong các phần.
- Giáo viên
cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố
như:
5
bao: 300kg hoặc 3 túi : 15 kg
1
bao? kg 1
túi : ? kg
* Hướng dẫn học sinh
giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong cia đèu vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật
ong?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ
đầu bài ( 3 lần).
- Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài
toán – Giáo viên ghi bảng( Phương pháp hỏi đáp).
7
can : 35 lít
2
can : ? lít.
- Hướng dẫn học
sinh phân tích bài toán: ( Phương pháp hỏi đáp)
+
Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? ( 1 can chứa được
bao nhiêu lít mật ong)
+Làm
thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít mật ong trong 7
can chia cho 7).
+
Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: ? l.
+
Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can.
(Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2).
- Một học sinh nêu
lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng.
Bài
giải
Số
lít mật ong có trong mỗi can là:
35
: 7 = 5 (l)
Số
lít mật ong có trong 2 can là:
5
x 2 = 10 (l)
Đáp
số:10l mật ong.
- Yêu cầu học sinh
nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là
bước rút về đơn vị.
- Hướng
dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1:
Các
bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước:
+Bước
1: Tìm giá trị một đơn vị (
giá trị một phần trong các phần bằng nhau) . Thực hiện phép chia.
+ Bước
2: Tìm giá trị của nhiều
đơn vị cùng loại( giá trị của nhiều phần bằng nhau) . Thực hiện phép nhân.
+ Học
sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước.
- Hướng
dẫn học sinh làm bài tập áp dụng.
-
Giáo viên nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích
cách làm như.
3 túi : 45
kg hoặc
: 4 thùng : 20 gói.
12 túi : ?
kg. 5
thùng : ? gói.
Sau
khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần tiến hành
hướng dẫn học sinh luyện tập.
c/Luyện tập:
Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng
bài, giáo viên cần thay đổi hình thức luyện tập.
Bài 1: - Hướng dẫn học sinh thảo luận chung cả lớp, sau
đó 1 học sinh tóm tắt và giải bài toán trên bảng, cả lớp làm vào vở.
- Củng
cố bước rút về đơn vị.
-
Củng cố các bước giải bài toán này.
Bài 2: - Học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm đôi.
-
Yêu cầu 1 cặp học sinh trình bày bảng – Giáo viên kiểm tra các kết quả của cả
lớp.
-
Yêu cầu học sinh nêu bước rút về đơn vị.
-
Củng cố cách thực hiện 2 bước giải bài toán.
Bài 3: Hướng
dẫn học sinh chơi trò chơi ghép hình.
d/ Củng cố dặn dò:
- Học
sinh tự nêu các bước, cách thực hiện giải bài toán có liên quan đến rút về đơn
vị ( kiểu bài 1)
-
Giao thêm bài về nhà dạng tương tự để hôm sau kiểm tra.
-
Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ, giáo viên đều củng cố cách làm ở kiểu bài 1 là: +
Bài giải được thực hiện qua 2 bước:
Bước
1: ( Bước rút về đơn vị) Tìm giá trị 1 đơn vị ( Giá trị 1 phần). (
phép chia).
Bước
2: Tìm nhiều đơn vị ( từ 2
trở lên) ( phép nhân).
+
Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị ( nhiều
phần).
-
Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2.
3/ Phương
pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị giải bằng 2 phép tính chia: (
Kiểu bài 2)
Khi
dạy kiểu bài 2 này, tôi cũng dạy các bước tương tự. Song để học sinh dễ nhận
dạng, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài, khi kiểm tra bài cũ, tôi đưa đề bài
lập lại của kiểu bài 1: “ Có 35 lít mật ong rót đều vào 7 can . Hỏi 2 can đó có
bao nhiêu lít mật ong”. Mục đích là vừa kiểm tra, củng cố phương pháp giải ở
kiểu bài 1, cũng là để tôi dựa vào đó hướng các em tới phương pháp giải ở kiểu
bài 2( giới thiệu bài).
Bài
toán ở kiểu bài 2 có dạng sau: Có 35 lít mật ong đựng đều vào 7 can.
Nếu có 10 lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế?
-
Cách tổ chức, hướng dẫn học sinh cũng như ở kiểu bài 1.
-
Khi củng cố, học sinh nêu được ở bước 1 là bước rút về đơn vị và các bước thực
hiện bài giải chung của kiểu bài 2 này.
+ Bước
1:: Tìm giá trị 1 đơn vị ( giá trị 1 phần). ( đây là bước rút về
đơn vị) . ( phép chia).
+ Bước
2: Tìm số phần (số đơn vị) ( phép chia).
Sau
mỗi bài tập, chúng ta lại củng cố lại một lần, các em sẽ nắm chắc phương pháp
hơn. Đặc biệt khi học xong kiểu bài 2 này, các em dễ nhầm với cách giải ở kiểu
bài 1. Cho nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh giá kết
quả bài giải ( thử lại theo yêu cầu của bài).
Ví dụ: Các em đặt kết quả tìm được vào phần tóm tắt
của bài các em sẽ thấy được cái vô lí khi thực hiện sai phép tính của bài giải
như:
35
l : 7
can. 35
l : 7 can
10
l : 2 can (
đúng) 10
l : 50can ( vô lí).
Từ
đó các em nắm chắc phương pháp giải kiểu bài 2 tốt hơn, có kĩ năng , kĩ xảo tốt
khi giải toán.
* Tóm lại: Trên đây là một số
phương pháp hướng dẫn các em học sinh lớp 3 giải tốt dạng toán: Bài toán liên
quan đến rút về đơn vị, tôi tin rằng nếu chúng ta làm được thì các em nắm được
phương pháp giải dạng toán này rất tốt và chắc chắn, tránh được những sai sót
có thể xảy ra. Các em sẽ có được tinh thần phấn khởi, tự tin khi giải toán. Kết
quả học tập sẽ cao
Theo Ngoquyen.gov.vn
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY HỌC MÔN TOÁN (PHẦN TOÁN GIẢI) Ở TIỂU HỌC
Như chúng ta đã biết giáo dục tiểu học nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục
học lên.
Môn toán là một môn học chiếm một vị trí rất quan
trọng và then chốt trong nội dung chương trình các môn học bậc tiểu học .Các
kiến thức kĩ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống,
chúng rất cần cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở tiểu
học và các lớp trên. Môn toán giúp học sinh nhận biết các mối quan hệ về số
lượng và hính dạng không gian của thế giới hiện thực .Nhờ đó mà học sinh có
phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động
có hiệu quả trong đời sống. Môn toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn
luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề
.Nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng
tạo, nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của
người lao động như: cần cù, cẩn thận , có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế
hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học.
Xuất phát từ vị trí quan trọng của môn toán, qua thực
tế giảng dạy và nghiên cứu nhiều năm ở tiểu học, để góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn toán đặc biệt nội dung giải toán có văn bản thân tôi đã đúc
rút và tổng kết được một số bài học kinh nghiệm sau đây . Mời các bạn cùng
tham khảo. Thứ nhất: Những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chương trình
và SGK. Những tiết học toán trong SGK là những tiết học rất quan trọng, nhằm
cung cấp cho các em học sinh những yêu cầu cơ bản nhất mà chương trình đặt
ra.Bằng hình ảnh trực quan sinh động và phương pháp sư phạm của giáo viên,
các em dần dần nắm chắc kiến thức, rèn luyện các kĩ năng,.... Việc nắm chắc
kiến thức phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức ban đầu của học sinh. Giáo viên cần
xuất phát từ những vấn đề rất cụ thể, chi tiết; học sinh phải nắm được bản
chất của vấn đề, các em phải có nền kiến thức đại trà vững chắc rồi mới đến
ngọn là giải quyết các bài toán ở mức độ cao hơn. Để làm được điều đó giáo
viên cần: - Tổ chức tốt các hoạt động học tập trong các tiết học để học sinh
giải quyết tốt các bài tập trong sách giáo khoa. Học sinh phải hiểu sâu sắc vấn
đề, nắm chắc kiến thức và vận dụng tốt vào thực hành.
- Thời lượng dành cho thực hành, luyện tập trong mỗi
tiết học chiếm từ 60%-70%, nên ta cần tận dụng đặc điểm này để tăng cường thực
hành, giúp học sinh hình thành và phát triển các kĩ năng toán học, giải quyết
về cơ bản các nhiệm vụ thực hành ngay trong các tiết toán tại lớp.
- Giáo viên cần giúp học sinh nắm chắc, thuộc lòng các
quy tắc, các công thức tính mà SGK đã cung cấp. Có kĩ năng vận dụng công thức ,
quy tắc vào giải quyết các bài toán trong SGK phần thực hành.
- Giáo viên nên chuyển nội dung từng tiết dạy học toán
thành các phiếu học tập hay phiếu thực hành (nếu có điều kiện) để phát huy tính
chủ động và sáng tạo của HS, nêu cao hiệu quả và tăng năng suất học tập. Trong
quá trình biên soạn các phiếu học tập, GVnên tích hợp nhiều nội dung giáo dục
gắn với thực tế và gần gũi thu hút được hứng thú của HS, có thể sử dụng một số
tranh ảnh, hình vẽ ngộ nghĩnh để minh hoạ cho các bài tập thêm sinh động, có
thể thiết kế các bài tập dưới dạng bài tập trắc nghiệm, các trò chơi hay câu đố
vui toán học mà không làm biến dạng nội dung cơ bản của môn toán, góp phần tăng
thêm gia vị cho môn toán để các em tiếp thu bài tốt hơn.
- Khi HS đã hoàn thành tốt các bài tập trong SGK , GV
cần dần từng bước hình thành ở các em cách suy luận sáng tạo, biết giải các
bài toán đó theo các cách khác nhau. Thứ hai: Những kinh nghiệm trong việc sử
dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Để chuyển tải được những kiến
thức khoa học tới cho học sinh, GV phải sử dụng các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học. Việc nắm bắt kiến thức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào
cách thức và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Trong xu thế dạy học hiện nay, GV không còn là người
truyền thụ tri thức theo một chiều , học sinh thụ động tiếp thu và làm theo. Người
GV cần căn cứ vào vốn sống, khả năng hiểu biết của HS để thiết kế các hoạt động
nhằm giúp HS tự phát hiện và giải quyết vấn đề dưới sự trợ giúp của các bạn
trong nhóm, trong lớp hay của GV. GV trở thành người thiết kế người tổ chức hướng
dẫn các hoạt động,.. còn HS là người thi công, người trực tiếp hoạt động để
tìm tòi kiến thức.
Trong giảng dạy GV cần biết lựa chọn các PPDH sao cho
phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình . Xuất phát từ các ví dụ hay các
bài toán mẫu trong SGK GV cần tổ chức cho học sinh thảo luận để tìm ra cách
giải quyết vấn đề mà bài toán đưa ra.
Trên cơ sở đó GV giúp các em biết tổng hợp để rút ra
những nhận xét, những quy tắc hay những kết luận cần thiết. Khi giảng dạy các
kiến thức mới, dạng toán mới GV cần chú ý các bước sau đây:
*Phương pháp chung: Tự phát hiện - Tự giải quyết - Tự
chiếm lĩnh
* Các bước cụ thể:
Bước 1: Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của HS (Làm
xuất hiện vấn đề và tạo cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu vấn đề đó)
Bước 2: Tổ chức các hoạt động học tập (theo cá nhân,
theo nhóm hay cả lớp)
Bước 3: Hướng dẫn học sinh trình bày ý kiến trước
nhóm, trước lớp.
Bước 4: Hướng dẫn học sinh nhận xét , đánh giá ,bổ
sung.
Bước 5: Giáo viên hệ thống, kết luận vấn đề, hướng
dẫn học sinh trình bày (GV chốt lại các vấn đề quan trọng)
Bước 6: Tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành,
rèn các kĩ năng.
* Lưu ý: Để triển khai các bước trên một cách có
hiệu quả cần có sự trợ giúp của các phương tiện và đồ dùng dạy học, do đó
trong quá trình tổ chức các họat động học tập của HS giáo viên cần sử dụng các
đồ dùng dạy học sao cho phù hợp và mang tính hiệu quả cao. PPDH ở tiểu học phải
phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, phù hợp với
đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh và điều kiện của lớp học . GV
cần chủ động lựa chọn, vận dụng phối kết hợp các phương pháp dạy học để phát
huy hiệu quả cao nhất.
Thứ ba: Những bước tiếp theo sau khi học sinh đã biết
cách giải một dạng toán. Mỗi bài Toán là sự kết hợp đa dạng của các khái niệm,
các mối quan hệ toán học, đòi hỏi học sinh phải biết xác lập được các mối quan
hệ giữa các dữ liệu của bài toán: Biết so sánh, phân tích, tổng hợp. Trên cơ sở
đó, lựa chọn được cách giải quyết tốt nhất. Như chúng ta đã biết, đường lối
chung để hướng dẫn học sinh giải một bài toán ở Tiểu học, thường gồm các bước
như: Nghiên cứu tìm hiểu bài toán, thiết lập quan hệ giữa các dữ liệu để tóm
tắt bài toán, lập kế hoạch giải bài toán, trình bày bài giải và kiểm tra kết
quả.Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, nếu giáo viên chỉ dừng lại ở các bước
trên thì coi như mới hoàn thành xong việc tổ chức hướng dẫn cho học sinh giải
một bài toán. Điều quan trọng là sau khi học sinh giải xong bài toán đó, giáo
viên cần làm gì, cần khai thác những gì từ bài toán để một mặt củng cố được
cách giải, một mặt phải phát huy hết khả năng tư duy, sự sáng tạo của học sinh
khi học toán. Tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm sau đây:
- Nâng cao mức độ khó dễ của bài toán: Trên cơ sở học
sinh đã nắm chắc, hay đã củng cố tốt được cách giải khái quát của bài toán,
giáo viên cần nâng dần mức độ của bài toán đó nhằm kiểm tra khả năng vận dụng
của các em vào các tình huống khác nhau nhằm rèn kỹ năng, kỹ xảo giải toán, gây
hứng thú học tập và phát huy khả năng của từng em.
- Tìm nhiều cách giải khác nhau cho bài toán: Biện
pháp này nhằm giúp học sinh có thể vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết
bài toán theo các hướng khác nhau.Trong chương trình tiểu học học sinh đã được
trang bị một khối lượng khá lớn về các công cụ giải toán .
Trong mỗi bài toán có thể chứa đựng rất nhiều các cách
giải khác nhau, nên thông qua mỗi bài toán đó GV có thể củng cố cho học sinh rất
nhiều các phương pháp giải toán đã học. Đối với HS tiểu học các em đã được
làm quen với nhiều dạng toán cơ bản .
Từ việc vẽ sơ đồ cụ thể các em dễ dàng tìm ra được
lời giải bài toán . Tuy nhiên không phải lúc nào cũng vẽ được sơ đồ của bài
toán , do vậy việc biến đổi các bài toán để đưa về các dạng quen thuộc cũng là
một phương pháp rất đặc trưng trong dạy toán tiểu học.
- Tìm hướng giải quyết bài toán có nhiều khả năng xảy
ra Biện pháp này bên cạnh giúp HS củng cố kĩ năng giải toán, phát triển tư
duy, ở mức độ cao hơn còn đòi hỏi các em phải biết tìm tòi giải quyết tất cả
các khả năng có thể xảy ra để tìm hết các đáp số của bài toán, biết loại trừ
các khả năng không phù hợp.
- Giải quyết bài toán ngược với các bài toán đã giải:
Khi giải xong một bài toán, nếu giáo viên đặt ra các bài toán ngược và yêu cầu
học sinh tìm cách giải, sẽ có tác dụng rất tốt trong việc phát huy khả năng
sáng tạo của các em trong việc vận dụng cách giải của bài toán vừa làm làm cơ
sở để giải các bài toán ngược.
- Tổ chức cho học sinh lập đề toán theo sơ đồ tóm tắt
cho sẵn rồi giải: Mục đích của hoạt động này là nhằm giúp học sinh căn cứ vào
sơ đồ tóm tắt cho sẵn để nhận diện dạng toán cơ bản, để từ đó có thể tự lập một
đề toán tương ứng với sơ đồ tóm tắt đó rồi tự trình bày bài giải. Với hoạt
động này sẽ nhằm phát huy vốn sống, vốn hiểu biết và khả năng diễn đạt ngôn ngữ
khi học toán của các em. Giúp các em biết lựa chọn và đưa các vấn đề trong
cuộc sống vào làm nền cho đề toán của mình.
- Tổ chức cho học sinh tìm dữ kiện còn thiếu hay các
dữ kiện thừa trong các bài toán. Việc làm này không những củng cố , khắc sâu
cách giải các dạng toán mà còn có tác dụng rất tốt trong việc phát triển tư
duy cho học sinh. Bước đầu hình thành ở các em cách tư duy của một nhà phát
minh , nhà khoa học trong tương lai.
Thứ tư: Những kinh nghiệm trong việc mở rộng phát
triển và nâng cao kiến thức . Việc mở rộng và nâng cao kiến thức phải trên cơ
sở học sinh đã nắm chắc các kiến thức cơ bản.Biết sử dụng các kiến thức cơ bản
một cách linh hoạt , sáng tạo.Biết kích thích, gợi mở để các em có nhu cầu vận
dụng kiến thức đó.Có như vậy việc nâng cao kiến thức mới thực sự phát huy được
hiệu quả cao.
- Trước khi dạy mỗi dạng bài ,giáo viên cần cho học
sinh ôn tập và hệ thống lại các kiến thức cơ bản có liên quan để việc tiếp thu
bài của học sinh đạt được hiệu quả cao.Phải giúp học sinh hiểu sâu và biết
cách sử dụng thành thạo các kiến thức đó.
- Khi phát triển , mở rộng và nâng cao kiến thức cho
học sinh , giáo viên cần xuất phát từ các bài toán đơn giản , dễ hiểu.Qua mỗi
bài, hay hệ thống bài ,giáo viên cần cho học sinh khái quát chung được cách
giải. Giúp các em hiểu sâu , nhớ lâu và hình thành kĩ năng giải các bài toán
đó.
- Cần khai thác triệt để các dạng toán quen thuộc ẩn
chứa trong mỗi bài toán, giúp học sinh có kĩ năng biến đổi hay kĩ năng suy luận
để đưa bài toán về dạng quen thuộc.Phát huy tối đa khả năng tìm tòi , sáng
tạo của các em trước mỗi bài toán. Hạn chế tối đa việc sử dụng phương pháp
đại số khô cứng.
- Khi học sinh đã nắm chắc cách giải thông thường,giáo
viên nên khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải khác, nhằm phát huy khả năng
của các em,gây hứng thú học tập , học sinh học giỏi không mất thời gian chờ đợi
những học sinh học kém hơn .
- GV cần thiết kế được các bài tập phù hợp cho các
đối tượng học sinh trong lớp, sao cho nội dung dạy học vừa sức , không bị quá
tải song vẫn phát huy được khả năng sáng tạo và năng khiếu của học sinh.
Thứ năm: Những kinh nghiệm trong việc tổ chức kiểm tra
đánh giá học sinh Đánh giá học sinh là một khâu rất quan trọng nhằm: Nắm được
năng lực tiếp thu bài của học sinh trong lớp để đặt ra yêu cầu học tập đối với
từng học sinh : yêu cầu cao hơn đối với học sinh giỏi, yêu cầu ở mức độ cơ bản
đối với học sinh trung bình và yếu. Thu thập thông tin phản hồi về cách dạy của
GV để điều chỉnh sao cho phù hợp, bổ khuyết những điểm yếu của học sinh.Có
nhiều phương pháp đánh giá kết quả học tập của học sinh , phương pháp đánh
giá nào cũng có ưu điểm và nhược điểm, không có phương pháp nào là hoàn hảo
mọi mặt, do đó không nên cực đoan đề cao hoặc bác bỏ một phương pháp nào mà
phải nghiên cứu chúng thấu đáo để sử dụng đúng lúc, đúng chỗ. Trong quá trình
dạy học GV cần sử dụng nhiều phương pháp đánh giá một cách đa dạng như:
- Sử dụng bài kiểm tra tự luận.Dạng bài kiểm tra này
có rất nhiều ưu điểm nên được sử dụng phổ biến. Để được điểm cao học sinh
phải giải được bài toán , đồng thời phải biết trình bày bài giải , nghĩa là
các em phải thể hiện nhiều kĩ năng . Tuy nhiên dạng bài này cũng có những nhược
điểm nhất định việc đánh giá phụ thuộc phần nào vào ý nghĩ chủ quan của GV, tốn
nhiều thời gian cho việc chấm bài của GV, phạm vi kiến thức được kiểm tra
không được nhiều.
- Sử dụng bài kiểm tra trắc nghiệm: Khác với các bài
tập tự luận , khi trình bày bài giải đòi hỏi học sinh phải có sự lập luận chặt
chẽ , câu trả lời và phép tính phải hợp lý, trình bày một cách lô gíc .Các bài
tập trắc nghiệm chỉ đòi hỏi học sinh vận dụng các kiến thức đã học một cách
sáng tạo và nhanh nhạy để tìm ra đáp số đúng ,đáp số sai hay bài giải đúng ,
bài giải sai .Giúp cho giáo viên trong một thời gian ngắn có thể kiểm tra được
nhiều kiến thức của học sinh. Chính vì vậy loại bài tập này rất thu hút sự
nhiệt liệt hưởng ứng của học sinh , nó là một hình thức thay đổi không khí
giờ học toán và góp phần rất tốt trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh .
- GV cần sử dụng nhiều công cụ đánh giá khác nhau để
có thể đánh giá đúng HS một cách khách quan:Kiểm tra vấn đáp, kiểm tra viết
(Gồm kiểm tra ngắn, kiểm tra một tiết). Trong các bài kiểm tra viết cần kết hợp
cả bài tập trắc nghiệm và bài tập tự luận, các bài tập cần sắp xếp theo thứ tự
từ dễ đến khó và có đủ loại bài đại diện cho các kiến thức kĩ năng cơ bản nhất.
- GV cần vận dụng cách đánh giá theo nhiều chiều: GV
đánh giá học sinh, học sinh đánh giá lẫn nhau và nêu cao ý thức tự đánh giá ở
mỗi học sinh. Với những kinh nghiệm trên, sau nhiều năm vận dụng, tôi nhận thấy
chất lượng dạy học môn toán (phần giải toán có văn) đã đạt được những thành
tích đáng kể .
Học sinh nắm chắc kiến thức hơn, có hào hứng trong học
tập, biết vận dụng các kiến thức một cách sáng tạo vào giải quyết các bài toán
thực tế, tạo cho các em một sức bật mới trong nhận thức và hành động.
toantieuhoc.com sưu tầm
MỘT SỐ CÁCH TÍNH NHẨM
1. Bình phương số có tận cùng là 5 (tiện với số có 2 chữ
số )
-Xét
tích của:5x5=25 viết 25 vào tậncùng của tích.
-Nhân
chữ số hàng chục với số liền sau của chữ số ấy rồi viết tích đó vào trước 25.Ta
được tích đúng.
Ví
dụ 1: 45 x 45 =?
2025
Ví dụ 2: 65 x 65 = ? 4225
5x5=25
5x5 =25
4x5=20 6x7
=42
2.
Bình phương nhẩm một số có hai chữ số tùy ý
Xét
tích của số tròn chục gần nhất với số mà số tròn chụclấy xuống bao nhiêu thì số
đó cộng vào bấy nhiêu,số tròn chục mà lấy lên bao nhiêu thì số đó trừ đi bấy
nhiêu rồi cộngvơí tíchlà bình phương của số đơn vị mà số tròn chục lấy lên
hay xuống.Thì được tích đúng.
Ví
dụ 1
:
24 x 24 =
? 576
Xét: 24
- 4 = 20 và 24 + 4 =28
Nhẩm: 28 x 20 =560
4 x 4
= 16
Vậy
24 x 24 = 560 + 16 = 576.
Ví
dụ
2:
26 x 26 = ? 676
Xét: 26 + 4 = 30 và 26 - 4 = 22
Nhẩm:
22 x 30 = 660
4 x 4 = 16
Vậy
26 x 26 = 660 + 16 = 676.
3.
Nhân nhẩm hai số có chữ số hàng chục giống nhau, chữ số hàng đơn vị có tổng
bằng 10
Xét
tích hai chữ số hàng đơn vị viết vào tận cùng của tích rồi nhân chữ số hàng
chục với số liền sau của chữ số ấy được tích viết vào trước tích của hai chữ số
hàng đơn vị.Ta được tích đúng.
Ví
dụ:
a) 67 x 63 = ?
4221
b) 94 x 96 = ? 9024
Nhẩm:
3 x 7
= 21
Nhẩm: 4 x 6 = 24
6 x 7 =
42
9 x 10 = 90
Vậy 67 x 63 =
4221
Vậy 94 x 96 = 9024
4.
Nhân nhẩm số có hai chữ số với số có hai chữ số đối xứng nhau qua một số tròn
chục
Xét
bình phương cua số tròn chục gần nhất giữa hai số rồi trừ đi bình phương số đơn
vị của thừa số bị giảm đi hay tăng lên đến số tròn chục.Ta được tích đúng.
Ví
dụ:
a) 52 x 48 = ?
2496
b) 68 x v52 = ? 3536
Nhẩm:
50 x50 =
2500
Nhẩm: 60 x 60 = 3600
2
x 2 =
4 8
x 8 = 64
Vậy
52x48= 2500- 4 =
2496.
Vậy 68 x 52 = 3600-64 = 3536.
c)
46 x 54 = ?
2484
đ) 71 x 89 = ? 6319
Nhẩm:
50 x50 =
2500
Nhẩm: 80 x 80 = 6400
4
x4 =
16
9 x 9 = 81
Vậy
46x54= 2500-16=
2484.
Vậy 71 x 89 = 6400-81= 6319.
Sưu
tầm